Chất
chỉ điểm ung thư là những chất do các tế bào ung thư hoặc các tế bào
khác của cơ thể sản xuất đáp ứng với ung thư hoặc một số bệnh lành tính.
Hầu hết chất chỉ điểm ung thư vẫn được các tế bào bình thường sản xuất
nhưng lượng các chất này sẽ tăng rất nhiều trong trường hợp ung thư. Có
thể phát hiện chất chỉ điểm ung thư trong máu, nước tiểu, phân, tổ chức u
hay các tổ chức khác, hoặc trong dịch cơ thể của một số bệnh nhân ung
thư.
Hầu hết chất chỉ điểm
ung thư là những protein nghĩa là có tính kháng nguyên nhưng không phải
tất cả các kháng nguyên ung thư đều có thể dùng như là chất chỉ điểm ung
thư.
Gần đây,những đặc
điểm biểu lộ gen và những thay đổi của DNA cũng bắt đầu được dùng như là
chất chỉ điểm ung thư.Những chất chỉ điểm ung thư loại này có tính đặc
hiệu cao với từng tổ chức ung thư.
Cho đến nay,đã xác định và sử dụng trên lâm sàng hơn 50 chất
chỉ điểm ung thư khác nhau.Một số ít chỉ liên quan đến một loại ung thư
duy nhất,trong khi những chất khác liên quan đến hai hoặc nhiều loại
ung thư khác nhau. Không có chất chỉ điểm ung thư “toàn năng” có khả
năng phát hiện bất kỳ một loại ung thư nào.
Có
một số giới hạn trong việc sử dụng các chất chỉ điểm ung thư.Đôi khi
những trường hợp không phải là ung thư cũng có thể làm tăng lượng chất
chỉ điểm ung thư. Ngoài ra,không phải ai bị ung thư cũng có lượng chất
chỉ điểm ung thư liên quan đến loại ung thư này tăng cao.
II. Vai trò của chất chỉ điểm ung thư:
Các
chất chỉ điểm ung thư được dùng để phát hiện,chẩn đoán và theo dõi điều
trị một số bệnh ung thư.Dù một lượng cao chất chỉ điểm ung thư có thể
gợi ý một trường hợp ung thư,chỉ một mình xét nghiệm này không
đủ để xác định chẩn đoán ung thư mà phải kết hợp với các kết quả lâm
sàng và cận lâm sàng khác như sinh thiết,chẩn đoán hình ảnh..v.v..
Định
lượng chất chỉ điểm ung thư trước điều trị giúp bác sĩ điều trị lập kế
hoạch điều trị thích hợp.Trong một số trường hợp ung thư,lượng chất chỉ
điểm ung thư phản ánh giai đoạn (mức độ lan rộng) của bệnh và /tiên
lượng bệnh nhân (diễn tiến và kết quả ).
Cũng
có thể định lượng định kỳ chất chỉ điểm ung thư trong thời gian điều
trị ung thư để theo dõi và kiểm tra hiệu quả điều trị.
Sau khi chấm dứt điều trị,định lượng chất chỉ điểm ung thư giúp theo dõi và phát hiện tái phát.
III. Có thể sử dụng các chất chỉ điểm ung thư để sàng lọc ung thư không?
Vì có thể sử dụng các
chất chỉ điểm ung thư để đánh giá đáp ứng của ung thư với điều trị và
tiên lượng bệnh,các nhà nghiên cứu hy vọng chúng cũng hữu ích trong các
xét nghiệm sàng lọc nhằm phát hiện sớm ung thư trước khi các triệu chứng
xuất hiện.
Muốn đáp
ứngđược yêu cầu này,các xét nghiệm sàng lọc phải có độ nhạy rất cao ( có
thể xác định chính xác có bệnh) và tính đặc hiệu rất cao (có khả năng
xác định chính xác không bị bệnh).Nếu một xét nghiệm có độ nhạy cao,xét
nghiệm này sẽ nhận biết hầu hết những người bị bệnh,nghĩa là rất ít khi
cho kết quả âm tính giả.Nếu xét nghiệm có tính đặc hiệu cao,sẽ có rất ít
người có kết quả dương tính mà không bị bệnh,nói cách khác, có rất ít
kết quả dương tính giả.
Dù
các các chất chỉ điểm ung thư vô cùng hữu ích trong việc xác định ung
thư có đáp ứng vói điều trị hay không,hoặc đánh giá nguy cơ tái phát,cho
đến nay vẫn chưa có một xét nghiệm phát hiện chất chỉ điểm ung thư nào
có độ nhạy và tính đặc hiệu đủ để dùng trong việc sàng lọc ung thư.
Đã
có nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống đánh giá khả năng này,ví dụ
với PSA hay CA 125,nhưng kết quả cho thấy các chất chỉ điểm ung thư này
cũng tăng trong những bệnh lành tính.
Do
đó ngày nay,các nhà nghiên cứu đã chuyển hướng sang một lĩnh vực mói có
tên là proteomics,chuyên nghiên cứu cấu trúc,chức năng và hình thức
biểu lộ của protein,và hy vọng sẽ có được các chất chỉ điểm sinh học có
khả năng nhận ra bệnh ung thư ở giai đoạn sớm,tiên đoán hiệu quả của
điều trị và đánh giá được nguy cơ tái phát sau khi chấm dứt điều trị.
IV. Các chất chỉ điểm ung thư đang được sử dụng:
1.Tái phối trí gen ALK: Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ,u lympho tế bào lớn.
2.Alpha-fetoprotein (AFP): Ung thư gan (HCC),ung thư tế bào mầm.
3.Beta-2-microglobulin(B2M): Đa u tủy,lơxêmi kinh dòng lymphô,một vài u lymphô.
4.Beta-hCG:Choriocarcinoma, ung thư tinh hoàn.
5.BCR-ABL:Lơxêmi kinh dòng tủy.
6.Đột biếnV600E BRAF: U sắc tô da, ung thư đại tràng.
7.CA 15.3/CA 27,29: Ung thư vú
8.CA 19.9:Ung thư tụy,ung thư đại tràng,một số ung thư tiêu hóa (túi mật,ống mật,dạ dày)
9.CA 125:Ung thư buồng trứng.
10.Calcitonin:Ung thư tủy tuyến giáp.
11.Calretinin:Mesothelioma,sex cord-gonadal stromal tumor,adrenocortical carcinoma,synovial sarcoma.
12.Carcinoembrionic antigen(CEA):Ung thư đường tiêu hóa,ung thư cổ tử cung,ung thư phổi,ung thư buồng trứng,ung thư vú,ung thư đường tiết niệu.
13.CD 20:U lymphô không Hodgkin.
14.CD 34:Hemangiopericytoma/solitary fibrous tumor,pleomorphic lipoma,gastro- intetsinal stromal tumor,dermatofibrosarcoma protuberans.
15.CD45(PTPRC): U lymphô,lơxêmi,hystiocytic tumor.
16.CD 99:Ewing
sacoma,primitive neuroectodermal tumor,hemangiopericytoma/ solitary
fibrous tumor, synovial sarcoma,lymphoma,leukemia, sex cord-gonadal
stromal tumor.
17. CD 117: Gastrointesstinal stromal tumor,mastocytosis,seminoma.
18.Chromogranin A:Neuroendocrine tumor.
19.NST 3,7,17 và 9p21:Ung thư bàng quang.
20.Cytokeratin fragment 21-1(CYFRA 21-1):Ung thư phổi
21.Desmin:Sarcoma cơ trơn, sarcoma cơ vân,endometrial stromal sarcoma.
22.Epithelial membrane protein(EMA):Nhiều loại sarcoma,meningioma,nhiều loại carcinoma.
23.Phân tích đột biến EGFR:Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ.
24.Thụ thể Estrogen/thụ thể Progesterone:Ung thư vú
25.Fibrin/Fibrinogen:Ung thư bàng quang.
26.Yếu tố VIII,CD 31 FL1: Sarcoma mạch máu.
27.Glial fibrillary acidic protein (GFAP):Glioma(astrocytoma,ependynoma)
28.Gross cystic disease fluid protein(GCDFP-15):Ung thư vú,ung thư buồng trứng, ung thư tuyến nước bọt.
29.HE4:Ung thư buống trứng
30.HER2/neu: ung thư vú,ung thư dạ dày,ung thư thực quản.
31.HMB45:U sắc tố,PEComa(ví dụ angiomyolipoma),clear cell carcinoma, adrenocortical carcinoma.
32.Immunoglobulin:Đa u tủy(bệnh Kahler),bệnh Waldenstrom.
33.Inhibin: Sex cord-gonadal stromal tumor, adrenocortical carcinoma,hemangio- blastoma.
34.Phân tích đột biến KRAS:Ung thư đại tràng,ung thư phổi không phải tế bào nhỏ.
35.KIT: Gastrointestinal stromal tumor,mucosal melanoma.
36.Lactate dehydrogenase (LDH):Ung thư tế bào mầm.
37.MART-1(Melan-A): U sắc tố,u do steroid gây nên(adrenocortical carcinoma, hemangioblastoma).
38.Myo D1:Rhabdomyosarcoma,small,round,blue cell tumor.
39.Muscle-specific-actin(MSA):Myosarcoma (sarcoma cơ trơn, sarcoma cơ vân).
40.Nuclear matrix protein 22:Ung thư bàng quang.
41.Neurofilament: Neuroendocrine tumor, ung thư phổi tế bào nhỏ.
42.Neuron-specific enolase(NSE): Neuroendocrine tumor, ung thư phổi tế bào nhỏ,
ung thư vú.
43.Placental alkaline phosphatase(PLAP):Seminoma,dysgerminoma,embryonal carcinoma.
44.Prostate-specific antigen(PSA):Ung thư tuyến tiền liệt.
45.S100 protein: Sarcoma(neurosarcoma,lipoma,chondrosarcoma),astrocytoma,
gastrointestinal stromal tumor,ung thư tuyến nước bọt,một vài loại adenocarcinoma,
hitiocytic tumor(dendritic cell,macrophage),u sắc tố.
46.Smooth muscle actin(SMA): Gastrointestinal stromal tumor,sacoma cơ trơn,
PCComa.
47.Synaptophysin: Neuroendocrine tumor
48.Thyroglobulin:Ung thư tuyến giáp(không thấy trong ung thư tủy tuyến giáp)
49.Tumor M2-PK:Ung thư đại tràng,vú,thận,phổi,tụy,thực quản,dạ dày,cỏ tử cung,buồng trứng.
50.Vimentin: Sarcoma,carcinoma tế bào thận,ung thư nội mạc tử cung,carcinoma phổi,u lymphô,lơxêmi,u sắc tố.
V. Các chất chỉ điểm ung thư phổ biến:
1.Alpha-fetoprotein(AFP): là
protein bình thường chính,thành phần chủ yếu của huyết tương bào
thai,do gan,túi noãn hoàng sản xuất,có cấu trúc chuỗi giống với albumin.
Lượng
AFP đạt mức tối đa vào cuối tuần thứ 12 của thai kỳ(khoảng 3mg/ml),sau
đó giảm dần đến lượng bình thường của người lớn vào tháng thứ 8-12 sau
khi sinh.
Ở phụ nữ có
thai,định lượng AFP trong máu hoặc nước ối là một trong những xét nghiệm
sàng lọc các dị tật bẩm sinh:AFP tăng trong khuyết tật hở ống thần
kinh,thoát vị rốn và giảm trong hội chứng Down.
AFP
là chất chỉ điểm ung thư của ung thư gan (HCC) và ung thư tế bào mầm.
Tuy nhiên AFP cũng tăng ở phụ nữ có thai bình thường và trong một số
bệnh gan lành tính (viêm gan,xơ gan…).
2.Human chorionic gonadotrop(h)ine(HCG): là một nội tiết tố glycoprotein được sản xuất
trong thời kỳ thai nghén do phôi vừa thụ thai và sau đó,do
syncytiotrophoblast (một phần của nhau thai).Một số khối u ung thư cũng
sản xuất nội tiết tố này,do đó,ở những người không có thai,những lượng
lớn HCG có thể cho phép chẩn đoán ung thư. Tuyến não thùy của nam giới
lẫn nữ giới cũng sản xuất một chất giống HCG gọi là luteinizing
hormone(LH).
HCG tương tác
với thụ thể LHCG và khởi động việc duy trì thể vàng(corpus luteum) trong
suốt thời kỳ đầu của thai kỳ,làm chúng sản xuất nội tiết tố
progesterone.Nội tiết tố này tạo cho tử cung một hệ thống dày đặc mạch
máu và mao mạch nhằm duy trì sự phát triển của bào thai.
Do rất giống LH,HCG cũng được dùng trên lâm sàng để tạo rụng trứng ở buồng trứng cũng như sản xuất testosterone ở tinh hoàn.
HCG cũng giữ vai trò trong sự biệt hóa /tăng sinh tế bào và có thể hoạt hóa hiện tượng cái chết theo chương trình.
HCG
có thể được sử dụng như chất chỉ điểm ung thư của một số ung thư như
seminoma,choriocarcinoma,u tế bào mầm,thai trứng,u quái ,islet cell
tumorvà ung thư tinh hoàn.Kết hợp với AFP,HCG là một chất chỉ điểm ung
thư tuyệt vời để theo dõi u tế bào mầm.
3.Carcinoembryonic antigen(CEA): là
một protein được thấy trong nhiều loại tế bào nhưng có liên quan đến
ung thư và bào thai đang phát triển.CEA là một trong những kháng nguyên
ung thư đầu tiên dược phát hiện và sử dung để chẩn đoán ung thư.
Dù
được phát hiện đầu tiên trong ung thư đại tràng,lượng CEA tăng cao
không đặc hiệu cho ung thư đại tràng lẫn các bệnh ung thư nói
chung.Ngoài ung thư đại tràng,CEA cũng tăng cao trong ung thư tụy, ung
thư dạ dày, ung thư phổi và ung thư vú.CEA cũng tăng cao trong mốt số
bệnh lành tính như xơ gan,viêm ruột,bệnh phổi mạn tính và viêm tụy. CEA
cũng tăng ở 19% người hút thuốc và 3% người chứng khỏe mạnh bình thường.
Tuy
không đủ khả năng sàng lọc ung thư cho quần thể người khỏe mạnh,CEA rất
được dùng để theo dõi tái phát vì có thể báo trước tái phát đến nhiều
tháng.
4.Prostate- specific antigen(PSA): là
một glycoprotein do tế bào biểu mô của tuyến tiền liệt tiết ra,có chức
năng làm cục đông tinh dịch loãng ra,tạo điều kiện để tinh trùng có thể
bơi tự do trong tinh dịch.Người ta cũng tin rằng PSA làm loãng dịch nhầy
cổ tử cung, giúp tinh trùng dễ xâm nhập.
Ơ
người bình thường lượng PSA trong máu rất thấp.Lượng PSA tăng cao gợi ý
có ung thư tuyến tiền liệt.Tuy nhiên cũng có trường hợp bệnh nhân bị
ung thư tuyến tiền liệt nhưng lượng PSA không tăng (âm tính giả)
PSA cũng có thể tăng trong viêm tuyến tiền liệt,tăng sản tuyến tiền liệt hoặc khi vừa mới xuất tinh(dương tính giả).
Hầu hết PSA trong máu đều gắn vào protein, trừ một lượng rất ít gọi là PSA tự do.Ở người bị ung thư tuyến tiền liệt ,tỷ lệ PSA tự do/PSA toàn phần(f PSA/t PSA)giảm.Nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt tăng nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 25%.Tỷ lệ này càng thấp thì nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt càng cao.
5.CA 125:
là kháng nguyên có mặt trong 80% trường hợp ung thư buồng trứng,CA 125
là chất chỉ điểm ung thư được phát hiện bởi kháng thể đơn dòng OC125
được sản xuất bằng cách gây miễn dịch chuột bằng tế bào ung thư buồng
trứng người.CA125 lưu hành trong máu bệnh nhân,do đó được dùng như một
chất chỉ điểm ung thư.
Ca125
là chất chỉ điểm ung thư được sử dụng rộng rãi trong việc phát hiện và
theo dõi ung thư hệ sinh sản ở phụ nữ,bao gồm ung thư tử cung,vòi trứng
và buồng trứng.CA125 cũng tăng trong ung thư tụy,phổi,vú và đại
tràng.Tuy nhiên cần lưu ý là CA125 cũng tăng ở phụ nữ có thai hoặc trong
kỳ kinh,cũng như trong một số bệnh không phải là ung thư như u nang
buồng trứng,endometriose,viêm màng ngoài tim,viêm gan,xơ gan,viêm phúc
mạc và ngay cả ở 1-2% người bình thường.
Trong trường hợp ung thư đã được chẩn đoán,lượng CA125 được xem là chất biểu thị
cho biết hiệu quả của điều trị.
6.CA15.3:
thường tăng trong ung thư vú,nhưng cũng tăng trong nhiều bệnh không
phải là ung thư như xơ gan,bệnh lành tính của vú và buồng trứng.
7.CA19.9: tăng trong 21-42% trường hợp ung thư dạ dày,20-40 trường hợp ung thư đại tràng,71-93% ung thư tụy.
8.CA 72.4: được tìm thấy trong tế bào biểu bì bào thai.Lượng CA72.4 ở người lớn bình thường vào khoảng 2-4 IU/ml.
CA72.4 là chất chỉ điểm ung thư có tính đặc hiệu cao.Lượng CA72.4 tăng trong ung thư dạ dày.Kết hợp với CEA,đây là xét nghiệm có độ nhạy và tính đặc hiệu cao.
Ca72.4
cũng tăng trong ung thư buồng trứng.Nhưng đôi khi,trong những trường
hợp viêm lành tính,lượng CA72.4 cũng tăng đến 7 IU/ml.
CEA
là tên viết tắt của kháng nguyên carcinoembryonic. CEA có thể tìm thấy
trong nhiều tế bào khác nhau của cơ thể, nhưng thường liên kết với các
khối u nhất định và phát triển thai nhi.
Từ "carcinoembryonic" phản ánh rằng CEA là sản phẩm của một số bệnh ung thư ("carcino-").
Là xét nghiệm đo nồng độ carcinoembryonic antigen trong máu. CEA bình
thường chỉ có trong ruột của thai nhi. Sau khi sanh, CEA biến mất và
không còn phát hiện trong huyết thanh nữa. Tuy nhiên, CEA có thể tăng
trong nhiều bệnh lý như ung thư đại tràng và người hút thuốc lá cũng có
thể làm tăng lượng CEA. Xét nghiệm này thường được sử dụng để theo dõi
sự đáp ứng điều trị của bệnh ung thư và tầm soát ung thư.
CEA
là một dấu hiệu sinh học ung thư nhưng có nhiều yếu tố có thể làm tác
động đến kết quả xét nghiệm như bệnh nhân hút thuốc lá nhiều, đang bị
bệnh viêm nhiễm nào đó, đang dùng thuốc, có thai, kinh nguyệt, thậm chí
có thể do trục trặc kỹ thuật của phòng xét nghiệm (thuốc thử nhạy
quá)... Vì vậy, dấu hiệu sinh học ung thư chỉ có giá trị tham khảo chứ
không xác định chắc chắn là bị ung thư hay không.
Vì
vậy, xét nghiệm máu để tìm dấu hiệu sinh học ung thư chỉ là một biện
pháp kỹ thuật, là phương tiện giúp tầm soát để có thể phát hiện sớm ung
thư và theo dõi sự tiến triển của ung thư. Lượng dấu hiệu sinh học trong
máu có thể đo đều đặn suốt quá trình điều trị để theo dõi độ chịu thuốc
của người bệnh...
Có
người do nhận thức chưa đầy đủ nên khi nhìn thấy kết quả CEA tăng cao
đã vội vàng kết luận: “CEA tăng cao trong máu như thế chắc là bị ung thư
rồi!”. Một câu nói vô tình của nhân viên y tế có thể khiến người bệnh
lo lắng dẫn đến suy sụp tinh thần.
Phạm vi bình thường của nồng độ CEA trong máu của một người bình lớn không hút thuốc là < 2.5 ng/ml và cho một người hút thuốc lá là < 5.0 ng/ml.
CEA
là một thử nghiệm dung để tầm soát khối u, đặc biệt là ung thư đường
tiêu hóa mà thường gặp CEA tăng trong bệnh lý ung thư của đại tràng và
trực tràng. When
the CEA level is abnormally high before surgery or other treatment, it
is expected to fall to normal following successful surgery to remove all
of the cancer. Khi có khối u ở đường tiêu hoá bao gồm cả lành tính và ác tính đều có thể làm tăng mức độ CEA. Ngoài ra The most frequent cancer which causes an increased CEA is cancer of the colon and rectum.những
bệnh ung thư khác như ung thư tuyến tụy, dạ dày, vú, phổi, buồng trứng
và tuyến giáp hay hút thuốc, nhiễm trùng, bệnh viêm ruột, viêm tụy, xơ
gan, và một số khối u lành tính cũng có thể có nồng độ CEA tăng cao.Chemotherapy
and radiation therapy can cause a temporary rise in CEA due to the
death of tumor cells and release of CEA into the blood stream.Benign
disease does not usually cause an increase above 10 ng/ml. Bệnh lành tính thường không gây ra tăng trên 10 ng / ml.
Tóm lại, giá trị tăng bất thường của CEA có thể gặp trong các bệnh như:
-Ung thư đại tràng
-Ung thư vú
-Ung thư phổi
-Ung thư tuỵ tạng
-Ung thư tuyến giáp
-Carcinoma niệu-sinh dục
-Bệnh lý viêm dạ dày- ruột( chẳng hạn như viêm loét đại tràng, viêm túi thừa, viêm túi mật, viêm tuỵ)
-Xơ gan
-Những bệnh lý khác của gan
-Loét dạ dày
-Hút thuốc lá nhiều
-Nhiễm trùng phổi
Vì
vậy không nên quá lo lắng khi nhận kết quả xét nghiệm CEA tăng, khi đó
nên tìm gặp bác sĩ để tư vấn. Nếu kết quả xét nghiệm CEA tăng cao
>10ng/ml thì bác sĩ sẽ chỉ định thử nghiệm thêm DR. 70 để tầm soát.
Nói chung CEA hay DR. 70 chỉ là những thử nghiệm có giá trị tầm soát, có
giá trị tham khảo chứ không có giá trị khẳng định nên đừng quá bi quan
hay lo lắng thái quá đôi khi dẫn đến suy sụp tinh thần. Do đó lời khuyên
tốt nhất khi có xét nghiệm CEA tăng cao nên đến gặp bác sĩ để tư vấn,
không nên gặp thầy lang hay những người thiếu hiểu biềt về chuyên môn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét